You are on page 1of 10

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-1758

Tài nguyên nước mặt lưu vực sông Gianh

Nguyễn Thị Nga*, Nguyễn Phương Nhung


Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam

Nhận ngày 29 tháng 4 năm 2011

Tóm tắt. Sông Gianh có tổng diện tích lưu vực 4680 km2, chảy qua và cung cấp nước cho các
huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Bố Trạch (1 phần) của tỉnh Quảng Bình và 1 phần
huyện Kỳ Anh của tỉnh Hà Tĩnh. Bởi vậy, nghiên cứu đánh giá tài nguyên nước lưu vực sông
Gianh là vấn đề cần thiết và có nghĩa thực tiễn. Tuy nhiên, do rất thiếu số liệu thực đo dòng chảy
nên tài nguyên nước lưu vực sông Gianh trước đây chưa được nghiên cứu đầy đủ. Bài báo này
công bố kết quả đánh giá tài nguyên nước mặt lưu vực sông Gianh dựa trên cơ sở dữ liệu bao gồm
các số liệu đo mưa tại các trạm trong và lân cận lưu vực tính đến năm 2008, chuỗi số liệu dòng
chảy thực đo 21 năm (1961-1981) duy nhất tại trạm Đồng Tâm trên sông Rào Nậy và chuỗi số liệu
dòng chảy khôi phục được nhờ ứng dụng mô hình MIKE-NAM tại các vị trí cần thiết trên các sông
thuộc lưu vực. Các kết quả nghiên cứu cho thấy: Lượng mưa hàng năm trên lưu vực sông Gianh
thuộc loại phong phú. Chính vì vậy lượng dòng chảy hàng năm trên các sông suối cũng thuộc loại
dồi dào. Tuy nhiên, do dòng chảy phân phối không đều theo cả không gian và thời gian nên việc
sử dụng tài nguyên nước lưu vực sông Gianh gặp phải những khó khăn không nhỏ.

1. Điều kiện địa lí tự nhiên [1, 2]  Lưu vực sông Gianh có độ cao bình quân
360 m, độ dốc trung bình 19,2%. Địa hình đồi
Lưu vực sông Gianh nằm trong phạm vi từ núi chiếm hầu hết diện tích lưu vực, địa hình
vĩ tuyến 17o23’ đến 18o07’ vĩ bắc và từ kinh đồng bằng rất hẹp, giáp biển là các cồn cát di
tuyến 105o37’ đến 106030’ kinh đông, phía bắc động ảnh hưởng lớn đến việc thoát nước của
giáp lưu vực sông Rào Cái và Ngàn Sâu với cửa sông. Hướng chủ yếu của các dãy núi trên
đường phân nước là dãy Hoành Sơn và dãy lưu vực là tây bắc-đông nam, riêng dãy Hoành
Động Chùa-Mốc Lèn, phía tây giáp Lào với Sơn ở phía bắc có hướng tây-đông.
đường phân nước là đỉnh của dãy Trường Sơn, Nham thạch phân bố trong lưu vực chủ yếu
phía nam giáp lưu vực sông Kiến Giang và phía là đá vôi và đá trầm tích, rải rác có đá granit. Đá
đông giáp biển Đông (hình 1). Do địa hình vôi phân bố ở phía nam, chiếm khoảng 25-30%
cacxtơ phát triển nên đường phân nước phía tây diện tích lưu vực 1160 km2) và là vùng hoang
nam và nam của lưu vực không xác định được vắng vì không có nước mặt nhưng có nhiều
rõ ràng. hang động ngầm (lớn nhất là động Phong Nha:
dài 1500 m, rộng 8-35 m, cao 40 m).
_______

Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943
E-mail: ngant@vnu.edu.vn
166
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 167

Đất trên lưu vực sông Gianh được tạo thành khoảng 2400 mm. Mùa mưa muộn và ngắn hơn
do nhiều nguồn gốc, chủ yếu là đất phù sa bị so với các tỉnh miền Bắc, bắt đầu từ tháng VIII
nhiễm mặn hàng năm, ít màu mỡ và đất thềm hoặc IX và kết thúc vào tháng X, chiếm 60-70%
dốc cao cấu tạo bởi sản phẩm phong hóa bở rời tổng lượng mưa năm. Đây là vùng có nhiều
của các đá Feratic, sét, sa diệp thạch. ngày mưa trên 100 mm (chỉ sau Bắc Quang).
Rừng trong lưu vực còn nhiều, chiếm Dòng chính sông Gianh dài 160 km, bắt
khoảng 55% diện tích lưu vực. nguồn từ núi Phu-cô-pi thuộc dãy Trường Sơn,
Khí hậu lưu vực sông Gianh mang những chảy theo hướng đông bắc-tây nam và đổ ra
đặc điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa biển Đông tại cửa Gianh. Lưu vực sông Gianh
của miền Trung Trung bộ nhưng có nhiều nét có dạng gần tròn, hệ số phát triển chiều dài
riêng biệt. Nhiệt độ bình quân tháng cao đường phân nước là 1,55.
(19-30o), tăng dần từ tây sang đông và từ bắc Do có địa hình đá vôi nên mật độ lưới sông
xuống nam. Lượng bốc hơi năm dao động trong dao động trong phạm vi lớn, từ dưới 0,6
khoảng 800-1200 mm, có xu thế tăng dần về km/km2 (vùng núi đá vôi) đến trên 1,5 km/km2
phía đông. Lượng mưa hàng năm trên lưu vực (vùng núi Phu-cô-pi và vùng núi phía bắc lưu
sông Gianh thuộc loại phong phú, trung bình vực), trung bình 1,04 km/km2.

Hình 1. Bản đồ mạng lưới sông và các trạm khí tượng thủy văn lưu vực sông Gianh.
168 N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175

Sông Gianh có 13 sông nhánh cấp I, (8 ở bờ mưa năm dài và liên tục còn 3 trạm (Tuyên
trái và 5 ở bờ phải. Hai nhánh cấp I lớn nhất là Hóa, Minh Hóa, Trường Sơn) có chuỗi số liệu
sông Trôi và Rào Trổ. Sông Trôi dài 84 km, có mưa năm tương đối dài nhưng không liên tục.
diện tích lưu vực 2390 km2 (trong đó xấp xỉ Chuẩn mưa năm tại 7 trạm có tài liệu dài và liên
50% là đá vôi), bắt nguồn từ độ cao 1350 m của tục được tính bằng trị trung bình của thời kỳ
núi Cô-Ta-Ram, đổ vào sông Gianh ở bờ phải tính toán đại biểu lựa chọn căn cứ vào đường
tại Vạn Phúc, cách cửa Gianh 6 km. Sông Rào cong lũy tích sai chuẩn mưa năm vẽ cho từng
Trổ, dài 68,5 km, có diện tích lưu vực 556 km2, trạm (số liệu từ năm bắt đầu quan trắc đến năm
bắt nguồn từ Đông-Hồ-Nhanh có độ cao 375 m, 2008). Chuẩn mưa năm của 3 trạm còn lại được
chảy qua vùng đồi núi thấp và đổ vào sông tính từ chuẩn mưa năm của trạm tương tự dựa
Gianh từ bờ trái tại Cổ-Cẳng cách cửa Gianh 38 theo phương trình hồi quy của quan hệ tương
km. quan giữa từng cặp trạm (tính toán và tương tự).

Mạng lưới sông và các trạm khí tượng thủy Phân tích bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm
văn trong và lân cận lưu vực như hình 1. lưu vực sông Gianh có thể thấy:
- Lượng mưa hàng năm trên lưu vực sông
Gianh khá lớn, tính trung bình trên toàn lưu vực
2. Tài nguyên nước mưa đạt cỡ 2400 mm.
2.1. Chuẩn mưa năm và dao động của mưa năm - Lượng mưa năm phân bố không đều trong
trong thời kỳ nhiều năm phạm vi lưu vực, có xu thế tăng theo độ cao địa
hình từ 1800 mm đến 2800 mm. Vùng trung và
Bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm (hình 2)
hạ lưu lưu vực mưa ít nhất (1800-2000mm),
được xây dựng dựa trên các giá trị chuẩn mưa
vùng bắc lưu vực mưa nhiều nhất (2600-2800
năm tính toán cho 10 trạm đo mưa trong và lân
mm).
cận lưu vực sông Gianh. Trong số 10 trạm này,
7 trạm (Đồng Tâm, Mai Hóa, Ba Đồn, Tân Mỹ,
Kỳ Anh, Hương Khê, Đồng Hới) có tài liệu
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 169

Hình 2. Bản đồ đẳng trị chuẩn mưa năm lưu vực sông Gianh.
Kết quả tính hệ số biến đổi mưa năm trong hiện những năm mưa nhiều liên tục và những
thời kỳ nhiều năm và phân tích các đường cong năm mưa ít liên tục này gây ra những khó khăn
lũy tích sai chuẩn mưa năm tại các trạm đo mưa không nhỏ cho sản xuất và đời sống.
trong phạm vi lưu vực sông Gianh cho thấy:
- Mức độ dao động của mưa năm trong thời 2.2. Phân phối mưa trong năm
kỳ nhiều năm trên lưu vực sông Gianh thuộc
2.2.1 Phân phối mưa năm theo mùa
loại trung bình. Hệ số biến đổi mưa năm tại các
trạm dao động trong khoảng 0,19-0,23. Cũng như các nơi khác của nước ta, chế độ
mưa trong năm ở đây cũng phân hóa rõ rệt theo
- Dao động của mưa năm tại các trạm khá
mùa. Kết quả phân mùa mưa-khô theo chỉ tiêu
đồng pha với nhau, trong thời kỳ nhiều năm,
“vượt trung bình” cho các trạm đo mưa trong
những năm mưa nhiều liên tục thường xuất hiện
phạm vi lưu vực sông Gianh được thể hiện
xen kẽ với những năm mưa ít liên tục làm thành
trong bảng 1. Qua đó có thể thấy:
những chu kỳ mưa không hoàn toàn. Sự xuất
170 N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175

- So với các tỉnh miền Bắc nước ta, mùa có tổng lượng mưa chiếm tới 67-73% tổng
mưa trên lưu vực sông Gianh muộn và ngắn. Đa lượng mưa năm. Trong khi đó, mùa khô rất dài
số các trạm có mùa mưa bắt đầu từ tháng VIII tới 8-9 tháng nhưng có tổng lượng mưa chỉ
và kết thúc vào tháng XI, kéo dài 4 tháng. chiếm khoảng 27,5-32,8% tổng lượng mưa
Riêng trạm Tân Mỹ có mùa mưa muộn và ngắn năm, gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất và
nhất, chỉ 3 tháng (IX-XI). đời sống.
- Sự phân hóa giữa hai mùa mưa khô khá
sâu sắc. Mùa mưa chỉ kéo dài 3-4 tháng nhưng
Bảng 1. Kết quả phân mùa mưa-khô tại các trạm đo mưa trong phạm vi lưu vực sông Gianh
Mùa mưa Mùa khô
TT Tên trạm
Thời gian (% so với Xnăm) Thời gian (%so với Xnăm)
1 Đồng Tâm VIII-XI 68,7 XI-VII 31,3
2 Minh Hóa VIII-XI 67,2 XI-VII 32,8
3 Mai Hóa VIII-XI 70,2 XII-VII 29,9
4 Tuyên Hóa VIII-XI 68,8 XI-VIII 31,2
5 Ba Đồn VIII-XI 72,5 XII-VIII 27,5
6 Tân Mỹ IX-XI 72,2 XII-VIII 27,8

Hình 4. Biểu đồ phân phối mưa trong năm tại các trạm đo mưa trong phạm vi lưu vực sông Gianh.
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 171

2.2.2. Phân phối mưa năm theo tháng lượng mưa của ba tháng khô nhất (I-III hoặc II-
Biểu đồ phân phối mưa năm theo tháng tại IV).
các trạm trong phạm vi lưu vực sông Gianh Như vậy, mặc dù lượng mưa hàng năm trên
(hình 4) đều có dạng hai đỉnh (2 cực đại, 2 cực lưu vực sông Gianh tương đối phong phú nhưng
tiểu). Cực đại chính xuất hiện vào tháng X, cực do phân phối rất không đều theo các tháng
tiểu chính xuất hiện vào tháng II hoặc III. Cực trong năm nên gây không ít khó khăn cho sản
đại phụ do mưa tiểu mãn gây ra xuất hiện vào xuất và đời sống.
tháng V kéo theo cực tiểu phụ xuất hiện vào
tháng VI hoặc VII. Mặc dù lượng không lớn
nhưng sự xuất hiện của mưa tiểu mãn cũng góp 3. Tài nguyên nước sông, hồ
phần làm giảm bớt tình trạng căng thẳng về
nước đối với sản xuất nông nghiệp trong mùa 3.1. Chuẩn dòng chảy năm và dao động của
dòng chảy năm trong thời kỳ nhiều năm
khô.
Lượng mưa năm không chỉ phân hóa sâu Chuẩn dòng chảy năm là trị số dòng chảy
sắc theo mùa mà còn phân phối rất không đều năm trung bình trong thời kỳ nhiều năm, với
theo tháng. Tháng mưa lớn nhất (X) có lượng điều kiện cảnh quan địa lý không thay đổi, cùng
mưa chiếm tới 25-29,5% lượng mưa năm, lớn thuộc thời đại địa chất ngày nay và cùng mức
gấp 12-16,5 lần lượng mưa của tháng mưa nhỏ độ khai thác kinh tế sông ngòi. Đây là một đặc
nhất (II hoặc III). Ba tháng mưa lớn nhất (VIII- trưng cơ bản và ổn định của nguồn nước của
X hoặc IX-XI) có lượng mưa chiếm 58- 64,2% một lưu vực sông [3].
tổng lượng mưa năm, lớn gấp 9,3-11,3 lần

Bảng 2. Kết quả tính các đặc trưng chuẩn dòng chảy năm tại các trạm thực đo giả định trên lưu vực sông Gianh

Lưu Hệ số
Chuẩn
Diện lượng Môđun Lớp Tổng lượng dòng
mưa năm
tích dòng dòng chảy dòng chảy dòng chảy chảy
TT Trạm bình quân
lưu vực chảy chuẩn Mo chuẩn chuẩn chuẩn
lưu vực
F (km2) chuẩn (l/s/km2) yo (mm) Wo (106 m3)
Qo (m3/s)
xo (mm) o
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)

Đồng
1 1150 64,3 55,9 1763,5 2028,022 2375,9 0,74
Tâm
2 Rào Trổ 556 31,2 56,2 1769,9 984,048 2579,5 0,69
Khe
3 48,64 2,50 51,4 1621,1 78,85 2420,9 0,67
Trang
4 Rào Bòng 106 4,80 45,3 1428,2 151,392 2290,4 0,62
172 N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175

Hình 5. Bản đồ chuẩn môđun dòng chảy năm lưu vực sông Gianh.

Dựa trên 21 năm số liệu thực đo dòng chảy vực sông Gianh trên hình 5 được xây dựng dựa
(1961-1981) tại trạm Đồng Tâm trên sông Rào trên kết quả tính chuẩn mô đun dòng chảy năm
Nậy và số liệu dòng chảy khôi phục từ mưa và của 4 lưu vực sông nói trên (cột 5 của bảng 2).
bốc hơi nhờ ứng dụng mô hình MIKE-NAM [4] Riêng khu tây nam lưu vực: do địa hình hoàn
cho những năm không đo dòng chảy của trạm toàn đá vôi, mưa rơi xuống bị tổn thất hết do
Đồng Tâm (1982-2008) và toàn bộ chuỗi số bốc hơi và thấm hút vào các hang động caxtơ,
liệu dòng chảy đồng bộ với chuỗi số liệu mưa không hình thành được sông suối nên không có
và bốc hơi cho 3 trạm thủy văn giả định: Rào dòng chảy mặt mà chỉ có dòng chảy ngầm.
Trổ (trên sông Rào Trổ), Khe Trang (trên sông Chuẩn mô đun dòng chảy năm của khu vực này
Khe Trang) và Rào Bòng (trên sông Rào Bòng) coi như bằng 0. Các kết quả tính và vẽ cho thấy:
(xem hình 2), các đặc trưng chuẩn dòng chảy - Nhờ có lượng mưa năm phong phú nên
năm của 4 lưu vực sông đã được tính toán (bảng dòng chảy năm trên các sông của lưu vực sông
2). Bản đồ chuẩn môđun dòng chảy năm lưu Gianh rất dồi dào. Tuy nhiên, do tác dụng phân
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 173

phối lại của điều kiện địa hình địa chất, dòng theo chỉ tiêu “vượt trung bình” [3] (bảng 3) cho
chảy năm phân bố rất không đều trong phạm vi thấy:
lưu vực sông Gianh. Khu vực đá vôi ở tây nam
- So với các sông miền Bắc, mùa lũ trên lưu
lưu vực hoàn toàn không có sự hiện diện của
vực sông Gianh muộn và ngắn, bắt đầu cùng
sông suối, mưa rơi xuống bị tổn thất hết do bốc
hoặc sau mùa mưa 1 tháng (từ tháng VIII hoặc
hơi và thấm hút vào các khe nứt caxtơ nên
IX), kết thúc cùng với mùa mưa (tháng XI), chỉ
không có dòng chảy mặt mà chỉ có dòng chảy
kéo dài 3-4 tháng.
ngầm. Các khu vực còn lại có chuẩn mô đun
dòng chảy năm dao động trong khoảng 45-55 - Sự phân hóa dòng chảy theo mùa khá sâu
l/s/km2 (tương đương với lớp dòng chảy năm sắc: 3-4 tháng mùa lũ có lượng dòng chảy
1400-1700 mm), nhỏ nhất ở hạ lưu, lớn nhất ở chiếm tới 64,6-72,2% tổng lượng dòng chảy
phía bắc, phù hợp với diễn biến theo không năm còn mùa kiệt kéo dài tới 8-9 tháng nhưng
gian của mưa năm. có lượng dòng chảy chỉ chiếm 27,8-35,4% tổng
lượng dòng chảy năm.
- Hệ số dòng chảy chuẩn của khu vực hoàn
toàn đá vôi bằng 0 còn của các khu vực còn lại 3.2.2. Phân phối dòng chảy năm theo tháng
khá lớn, dao động trong khoảng 0,62-0,74. Biểu đồ phân phối dòng chảy trong năm tại
Kết quả tính hệ số biến đổi dòng chảy năm các trạm thực đo và giả định trên lưu vực sông
trong thời kỳ nhiều năm và phân tích các đường Gianh (hình 6) cho thấy:
cong lũy tích sai chuẩn dòng chảy năm tại trạm
- Phù hợp với phân phổi mưa trong năm,
Đồng Tâm và 3 trạm thủy văn giả định cho thấy:
biểu đồ phân phối dòng chảy trong năm cũng có
- Mức độ dao động của dòng chảy năm dạng 2 đỉnh. Cực đại chính thường do mưa lớn
trong thời kỳ nhiều năm trên lưu vực sông gây bởi sự kết hợp của các hình thế thời tiết
Gianh thuộc loại trung bình. Hệ số biến đổi như: bão, áp thấp nhiệt đới, không khí lạnh, dải
dòng chảy năm tại các trạm dao động trong hội tụ nhiệt đới... và thường xuất hiện vào tháng
khoảng 0,26-0,31. X. Cực đại phụ do mưa tiểu mãn gây ra thường
- Dao động của dòng chảy năm tại các trạm xuất hiện vào tháng V hoặc VI, tuy có lượng
khá đồng pha với nhau và đồng pha với mưa không lớn (3,6-4,7% tổng lượng dòng chảy
năm. Những năm mưa nhiều cũng là những năm) nhưng góp phần làm giảm nhẹ tình trạng
năm dòng chảy năm phong phú và ngược lại. căng thẳng vì thiếu nước trong mùa kiệt đối với
sản xuất nông nghiệp. Cực tiểu chính thường
- Trong thời kỳ nhiều năm, những năm xuất hiện vào tháng (II hoặc IV và cực tiểu phụ
nhiều nước liên tục thường xuất hiện xen kẽ với thường xuất hiện vào tháng VII.
những năm ít nước liên tục làm thành những
chu kỳ nước không hoàn toàn. Sự xuất hiện - Biên độ dao động của dòng chảy tháng
trong năm khá lớn. Lượng dòng chảy của tháng
những năm nhiều nước liên tục và những năm ít
có dòng chảy lớn nhất (tháng X) chiếm 29,5-
nước liên tục này gây ra những khó khăn không
33,5% tổng lượng dòng chảy năm và lớn gấp
nhỏ cho sản xuất và đời sống.
14-22 lần lượng dòng chảy của tháng nhỏ nhất
3.2. Phân phối dòng chảy trong năm (tháng II hoặc IV).
- Ba tháng liên tục có dòng chảy lớn nhất là
3.2.1. Phân phối dòng chảy năm theo mùa
IX-XI có tổng lượng dòng chảy chiếm 62-68%
Phù hợp với chế độ mưa mùa, dòng chảy tổng lượng dòng chảy năm và lớn gấp 9-11 lần
năm trên các sông suối cũng phân hóa thảnh hai tổng lượng dòng chảy của ba tháng liên tục kiệt
mùa lũ-kiệt rõ rệt. Kết quả phân mùa dòng chảy nhất (II-IV).
174 N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175

Bảng 3. Kết quả phân mùa dòng chảy tại các trạm thực đo và giả định trên lưu vực sông Gianh
Mùa lũ Mùa kiệt
TT Tên trạm Tên sông
Thời gian (% so với Wnăm) Thời gian (%so với Wnăm)
1 Đồng Tâm Rào Nậy VIII-XI 70,35 XI-VII 29,65
2 Rào Trổ Rào Trổ IX-XI 64,63 XII-VIII 35,37
3 Khe Trang Khe Trang VIII-XI 72,17 XII-VII 27,83
4 Rào Bòng Rào Bòng IX-XI 67,96 XII-VIII 32,04

Hình 6. Biểu đồ phân phối dòng chảy trong năm tại các trạm thực đo và giả định trên lưu vực sông Gianh.
Như vậy, mặc dù nhìn chung tổng lượng 3.2.3. Chất lượng nước sông
dòng chảy năm trên lưu vực sông Gianh khá Chất lượng nước mặt trên sông Gianh hiện
phong phú nhưng do phân phối không đều trong không đáp ứng đủ tiêu chuẩn chất lượng nước
năm, mâu thuẫn với nhu cầu dùng nước nên gây uống về chỉ số hữu cơ. Chỉ số BOD5 trong nước
khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt. sông tăng từ 1,4 đến 2 lần so với tiêu chuẩn quy
định cho nước sinh hoạt loại A [5].
N.T. Nga, N.P. Nhung / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 27, Số 1S (2011) 166-175 175

3.2.4. Tài nguyên nước hồ trợ kinh phí của đề tài cấp cơ sở mã số
TN-10-47. Các tác giả xin chân thành cảm ơn
Trên phạm vi lưu vực sông Gianh có tổng
sự giúp đỡ nói trên.
cộng 17 hồ chứa nước nhỏ xây dựng trên các
sông ở hai bên tả hữu phần hạ lưu lưu vực với
tổng diện tích mặt hồ xấp xỉ 10,11 km2, trong Tài liệu tham khảo
đó 7 hồ ở phía bờ trái và 10 hồ ở phía bờ phải
[6]. Hồ chứa nước lớn nhất xây dựng trên sông [1] Trần Tuất, Nguyễn Đức Nhật. Khái quát địa lý
thủy văn sông ngòi Việt Nam, Phần một, Miền
Khe Trang cũng chỉ có diện tích 2,253 km2. Hồ Bắc, 1981.
chứa nước lớn thứ hai xây dựng trên nhánh cấp [2] Trần Tuất và nnk, Đặc trưng hình thái lưu vực
I của sông Rào Trổ có diện tích 1,275 km2. Các sông Việt Nam, Tổng cục Khí tượng Thủy văn -
hồ chứa nước còn lại đều có diện tích dưới 1 Viện Khí tượng Thủy văn, 1985.
km2. Ngoài ra còn có một số hồ bãi bồi nằm rải [3] K.P. Klibasev, I.F. Goroskov, Tính toán thủy văn
rác ven hai bên đoạn hạ lưu của sông chính. (Bản dịch từ Tiếng Nga của Ngô Đình Tuấn và Lê
Thạc Cán), Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà
Nội, 1975.
4. Kết luận [4] Nguyễn Thị Nga, Nguyễn Phương Nhung, Kết
quả ứng dụng mô hình NAM trong MIKE 11 khôi
Các kết quả đánh giá tài nguyên nước mặt phục số liệu dòng chảy lưu vực sông Gianh - tỉnh
lưu vực sông Gianh nói trên là đáng tin cậy, có Quảng Bình, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa
thể sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc lập học Tự nhiên và Công nghệ Tập 26, số 3S (2010)
quy hoạch khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên 405.
thiên nhiên nói chung và tài nguyên nước nói [5] Nguyễn Công Thành, Ngành cấp thoát nước đô
riêng trên lưu vực sông Gianh. thị Việt Nam và những thách thức của đô thị hóa
và biên đổi khí hậu, Báo cáo tham luận tại Hội
thảo khoa học “Nước cho phát triển đô thị” Thành
Lời cảm ơn phố Phan Rang-Tháp Chàm 21 tháng 3 năm 2011.
[6] Bản đồ địa hình tỉnh Quảng Bình (tỷ lệ 1:50000).
Nghiên cứu này được hoàn thành với sự hỗ

Surface water resources of Gianh watershed


Nguyen Thi Nga, Nguyen Phuong Nhung
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU,
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam

Gianh watershed has total area of 4680 km2. Gianh river flows through and provides water for 4
districts of Minh Hoa, Tuyen Hoa, Quang Trach, Bo Trach of Quang Binh province and Ky Anh of Ha
Tinh province. Therefore, studying to assessement of water resources of Gianh river basin is very
necessary. However, because measureed flow data are very limited so previous water resources of
Gianh river watershed does not study fully. This paper publishes results of assessment surface water
resources of Gianh watershed based on database, that include rainfall measure data at stations inside
and next to Gianh watershed up to 2008, series of flow measure data at Dong Tam on Rao Nay river in
21 years (1961-1981) and series of restored flow data by MIKE-NAM model at nessesary potitions on
the rivers belong to Gianh watershed. The study results show that because annual rainfall on the
wathershed is rich so annual flow quantity in the rivers also is plentiful. However because flows
distribute irregular to space and to time so use water in the wateshed encountered not less dificulties.

You might also like