You are on page 1of 3

Thẩm quyền theo lãnh thổ:

1.1. Khái niệm.


Có thể hiểu thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là quyền của một Tòa án cụ
thể, trong việc xem xét giải quyết các vụ việc dân sự và quyền hạn ra các quyết định khi lần đầu
tiên giải quyết các vụ việc đó, được xác định dựa trên cơ sở nơi cư trú, nơi có trụ sở của một
trong các bên đương sự, nơi có bất động sản hoặc nơi phát sinh sự kiện hoặc các dấu hiệu khác
mà pháp luật quy định.
1.2. Đặc điểm về thẩm quyền sơ thẩm dân sự Tòa án theo lãnh thổ.
Thứ nhất, thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ là thẩm quyền của Tòa án lần đầu tiên
xem xét giải quyết các vụ việc dân sự căn cứ vào các dấu hiệu về nơi cư trú, nơi có trụ sở của một
trong các bên đương sự, nơi có bất động sản hoặc nơi phát sinh sự kiện hoặc các dấu hiệu khác
mà pháp luật có quy định. Đây là dấu hiệu giúp phân biệt thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh
thổ với thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo loại việc.
Thứ hai, thẩm quyền dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là loại thẩm quyền có tính cụ thể, theo đó
có thể xác định một Tòa án cụ thể có quyền xem xét giải quyết vụ việc dân sự và quyền hạn ra các
quyết định khi giải quyết các vụ việc đó. Đặc điểm này cho thấy tính cụ thể hay tính cá biệt hóa
của thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ so với thẩm quyền dân sự theo loại việc và theo cấp
Tòa án.
Thứ ba, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định dựa trên thẩm
quyền của Tòa án theo loại việc và thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo cấp Tòa án. Xét trong quá
trình xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án thì thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
theo lãnh thổ là hệ quả không thể thiếu của việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo loại việc và
thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo cấp Tòa án. Nói một cách khác, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án theo lãnh thổ là kết thúc của quá trình xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo lãnh thổ.
Đối với đương sự, các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án theo lãnh thổ là cơ
sở pháp lý để nguyên đơn chủ động trong việc xác định được Toà án mà mình có thể gửi đơn kiện
hoặc lựa chọn Toà án thuận lợi nhất cho mình trong việc tham gia tố tụng. Ngoài ra, các quy định
về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án theo lãnh thổ sẽ giúp đương sự nhanh chóng thực hiện
được quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, tránh được việc gửi đơn kiện ra
Toà án không có thẩm quyền gây mất thời gian và chi phí không đáng có. Như vậy, các quy định
về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án theo lãnh thổ là một bảo đảm cho việc thực hiện quyền
tiếp cận công lý của công dân.
Đối với Toà án, các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ là cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc xác định một vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay
không, tránh được việc áp dụng không thống nhất trong thực tiễn gây kéo dài thời gian giải quyết
do vụ việc phải chuyển đi chuyển lại giữa các toà án, thậm chí bản án, quyết định bị huỷ để xét xử
lại do vi phạm về thẩm quyền. Đồng thời, các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án
theo lãnh thổ còn là cơ sở để giải quyết trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Toà án cùng cấp với nhau.
Ngoài ra, các quy tắc về phân định thẩm quyền theo lãnh thổ được nhà lập pháp xây dựng là cơ
sở pháp lý để tránh việc đương sự lạm dụng quyền khởi kiện để cùng một lúc khởi kiện vụ việc ở
nhiều Toà án khác nhau gây ra tình trạng có nhiều Toà án cùng giải quyết về một vụ việc và ra
những phán quyết trái ngược nhau, gây mất niềm tin vào cơ quan bảo vệ pháp luật và khó khăn
trong công tác thi hành án dân sự sau này.
Những trường hợp nguyen đơn lựa chọn tòa án:
_Quyề n lựa chọn Tòa án của đương sự là viê ̣c nguyên đơn, người yêu cầ u dân sự trong mô ̣t số trường hợp có
quyề n yêu cầ u Tòa án giải quyế t các vụ viê ̣c về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao đô ̣ng.
Khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự bao gồm đương sự trong vụ án dân sự và đương sự trong việc dân sự.
Đương sự trong việc dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu tòa án công nhận
hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý hoặc yêu cầu tào án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Đương sự trong việc dân sự còn là người tham gia vào quá trình tòa
án giải quyết việc dân sự để bảo vệ và trả lời những vấn đề có liên quan quyền và lợi ích của mình. Đương sự
trong vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan (Khoản 1 Điều 56 BLTTDS). Đương sự khi tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình, họ có các
quyền năng mà các chủ thể khác không có, đây là giới hạn luật định cho các chủ thể này để họ có thể lựa chọn
tòa án giải quyết nhằm đảm bảo lợi ích của chính họ và đảm bảo cho nguyên tắc về quyền của đương sự.
Những trường hợp đương sự được quyền lựa chọn Toà án để giải quyết
vụ kiện đều nhằm mục đích đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của công dân trong quan hệ pháp luật
dân sự. Các nhà làm luật đã dựa trên căn cứ “tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự dựa vào pháp luật thực hiện
quyền tố tụng
_Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011. Những việc dân sự mà đương sự có
quyền lựa chọn tòa án là những yêu cầu liên quan đến việc tuyên bố một người mất, hạn chế năng lực hành vi
dân sự; tuyên bố một người mất tích và một số yêu cầu khác thì người yêu cầu có thể yêu cầu Toà án nơi mình
cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết. Đối với yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì người yêu cầu có
thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải quyết. Đối với yêu cầu
hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn thì người yêu
cầu có thể yêu cầu Toà án nơi người con cư trú giải quyết. Việc hạn chế sẽ được thực hiện hiệu quả hơn,
vì cơ quan địa phương nơi người con sẽ giám sát được đầy đủ nhất việc thực hiện quyết định của bản án
do Toà án ra.
Như vậy pháp luật tố tụng dân sự đã quy định khá rõ ràng về quyền chủ thể của đương sự trong quá trình bảo vệ
quyền và lợi ích cho mình. Đồng thời phân chia, dự trù các trường hợp để các đương sự có thể dẽ dàng giải quyết
các tranh chấp phát sinh cũng như các yêu cầu liên quan khác. Mặt khác đảm bảo, tôn trọng nguyên tắc “ quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự” được ghi nhận trong BLTTDS.

Thứ nhất: Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị
đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết. Nếu bị đơn không có nơi cư trú,
làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi
mình cư trú, làm việc giải quyết. Đặt ra vấn đề này bởi lẽ khi người khởi kiện không có thông tin chính xác về
bên tranh chấp còn lại, không xác định được nơi cư trú thì sẽ không nhất thiết là phải đúng chính xác nơi mà bị
đơn cư trú. Việc lựa chọn này đảm bảo quyền lợi cho bên nguyên đơn trong hoạt động khởi kiện. Mặt khác khi
nguyên đơncó quyền yêu cầu Toà án nơi cư trú của mình giải quyết về vấn đề cấp dưỡng có nghĩa là đã tạo điều
kiện thuận lợi để người yêu cầu cấp dưỡng thực hiện quyền của mình trong những trường hợp như cách nhau về
mặt địa lý, đáp ứng được nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự để thực hiện quyền tố tụng.
Thứ hai: Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi
tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết. Có thể hiểu, chi nhánh là một bộ phận của pháp nhân
được thực hiện một số quyền hạnh chế hơn so với pháp nhân hoặc tài sản của pháp nhân. Mọi tranh
chấp phát sinh luôn đa dạng và phức tạp, việc đưa ra quyền lựa chọn nhằm rút ngắn thời gian giải quyết cũng
như quá trình thu thập thông tin, tài liệu liên quan được dễ dàng thuận tiện cho Toàn án và các bên tranh chấp.
Thứ ba: Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình
cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việcgây thiệt hại giải quyết; Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp
đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;Hiện nay các tranh chấp
phát sinh từ quan hệ hợp đồng rất là nhiều, quá trình giải quyết cần phải diễn ra nhanbh chóng chính vì thế luật
quy định về quyền lựa chọn Tòa án cho nguyên đơn nhằm giải quyết nhanh chóng các vụ án, đồng thời đảm bảo
lợi ích trực tiếp cho các bên tham gia.
Thứ tư: Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền
và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì
nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;Nếu tranh chấp phát
sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu
Tòa án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai
trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết. Quyền này một cách gián tiếp đã quy định có lợi cho bên yếu thế hơn
trong quan hệ lao động nhằm bảo vệ lợi ích cho họ trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.

You might also like