Professional Documents
Culture Documents
com/fake-webcam-6-1-full-version-
working-webcam-ao-khi-chat-292066.html
http://www.pcguide.vn/extlink.php?url=http://vi.wikipe
dia.org/wiki/Internet
Internet là gì?
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được
truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên
kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu
nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một
giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP).
Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ
hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và
các trường đại học, của người dùng cá nhân, và các
chính phủ trên toàn cầu.
Mạng Internet mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các tiện
ích phổ thông của Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến (chat),
máy truy tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ thương mãi và chuyển ngân, và các
dịch vụ về y tế giáo dục như là chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo. Chúng cung
cấp một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ trên Internet.
Nguồn thông tin khổng lồ kèm theo các dịch vụ tương ứng chính là hệ thống các trang
Web liên kết với nhau và các tài liệu khác trong WWW (World Wide Web). Trái với một
số cách sử dụng thường ngày, Internet và WWW không đồng nghĩa. Internet là một tập
hợp các mạng máy tính kết nối với nhau bằng dây đồng, cáp quang, v.v.; còn WWW, hay
Web, là một tập hợp các tài liệu liên kết với nhau bằng các siêu liên kết (hyperlink) và
các địa chỉ URL, và nó có thể được truy nhập bằng cách sử dụng Internet. Trong tiếng
Anh, sự nhầm lẫn của đa số dân chúng về hai từ này thường được châm biếm bằng những
từ như "the intarweb".
Các cách thức thông thường để truy cập Internet là quay số, băng rộng, không dây, vệ
tinh và qua điện thoại cầm tay.
Lịch sử Internet
Khi phát triển World Wide Web, Tim Berners-Lee xài bộ NeXTcube tại CERN và làm nó
thành máy chủ Web đầu tiên
Tiền thân của mạng Internet ngày nay là mạng ARPANET. Cơ quan quản lý dự án
nghiên cứu phát triển ARPA thuộc bộ quốc phòng Mỹ liên kết 4 địa điểm đầu tiên vào
tháng 7 năm 1969 bao gồm: Viện nghiên cứu Stanford, Đại học California, Los Angeles,
Đại học Utah và Đại học California, Santa Barbara. Đó chính là mạng liên khu vực (Wide
Area Network - WAN) đầu tiên được xây dựng.
Thuật ngữ "Internet" xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974. Lúc đó mạng vẫn được gọi
là ARPANET. Năm 1983, giao thức TCP/IP chính thức được coi như một chuẩn đối với
ngành quân sự Mỹ và tất cả các máy tính nối với ARPANET phải sử dụng chuẩn mới
này. Năm 1984, ARPANET được chia ra thành hai phần: phần thứ nhất vẫn được gọi là
ARPANET, dành cho việc nghiên cứu và phát triển; phần thứ hai được gọi là MILNET,
là mạng dùng cho các mục đích quân sự.
Giao thức TCP/IP ngày càng thể hiện rõ các điểm mạnh của nó, quan trọng nhất là khả
năng liên kết các mạng khác với nhau một cách dễ dàng. Chính điều này cùng với các
chính sách mở cửa đã cho phép các mạng dùng cho nghiên cứu và thương mại kết nối
được với ARPANET, thúc đẩy việc tạo ra một siêu mạng (SuperNetwork). Năm 1980,
ARPANET được đánh giá là mạng trụ cột của Internet.
Mốc lịch sử quan trọng của Internet được xác lập vào giữa thập niên 1980 khi tổ chức
khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng liên kết các trung tâm máy tính lớn với nhau
gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do đó
sau gần 20 năm hoạt động, ARPANET không còn hiệu quả đã ngừng hoạt động vào
khoảng năm 1990.
Sự hình thành mạng xương sống của NSFNET và những mạng vùng khác đã tạo ra một
môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới năm 1995, NSFNET thu lại thành
một mạng nghiên cứu còn Internet thì vẫn tiếp tục phát triển.
Với khả năng kết nối mở như vậy, Internet đã trở thành một mạng lớn nhất trên thế giới,
mạng của các mạng, xuất hiện trong mọi lĩnh vực thương mại, chính trị, quân sự, nghiên
cứu, giáo dục, văn hoá, xã hội... Cũng từ đó, các dịch vụ trên Internet không ngừng phát
triển tạo ra cho nhân loại một thời kỳ mới: kỷ nguyên thương mại điện tử trên Internet.
Năm 1994 là năm kỉ niệm lần thứ 25 ra đời ARPANET, NIST đề nghị thống nhất dùng
giao thức TCP/IP. WWW đã trở thành dịch vụ phổ biến thứ 2 sau dịch vụ FTP. Những
hình ảnh video đầu tiên được truyền đi trên mạng Internet.
Các loại ISP dùng riêng được quyền cung cấp đầy đủ các dịch vụ Internet. Điều khác
nhau duy nhất giữa ISP và ISP riêng là ko cung cấp dịch vụ Internet vời mục đích kinh
doanh. Người dùng chỉ cần thoả thuận với một ISP hay ISP riêng nào đó về các dịch vụ
được sử dụng và thủ tuc thanh toán được gọi là thuê bao Internet.
• VNPT
• Tổng Công ty Viễn thông Quân đội - Viettel
• Công ty FPT thuộc bộ khoa học và công nghệ
• NetNam thuộc Viện Công nghệ thông tin - Viện Khoa học và công nghệ Việt
Nam
• Công ty Thông tin Viễn thông Điện lực
• Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn - SPT
World Wide Web, gọi tắt là Web hoặc WWW, mạng lưới toàn cầu là một không gian
thông tin toàn cầu mà mọi người có thể truy nhập (đọc và viết) qua các máy tính nối với
mạng Internet. Thuật ngữ này thường được hiểu nhầm là từ đồng nghĩa với chính thuật
ngữ Internet. Nhưng Web thực ra chỉ là một trong các dịch vụ chạy trên Internet, chẳng
hạn như dịch vụ thư điện tử. Web được phát minh và đưa vào sử dụng vào khoảng năm
1990, 1991 bởi viện sĩ Viện Hàn lâm Anh Tim Berners-Lee và Robert Cailliau (Bỉ) tại
CERN, Geneva, Switzerland
Các tài liệu trên World Wide Web được lưu trữ trong một hệ thống siêu văn bản
(hypertext), đặt tại các máy tính trong mạng Internet. Người dùng phải sử dụng một
chương trình được gọi là trình duyệt web (web browser) để xem siêu văn bản. Chương
trình này sẽ nhận thông tin (documents) tại ô địa chỉ (address) do người sử dụng yêu cầu
(thông tin trong ô địa chỉ được gọi là tên miền (domain name)), rồi sau đó chương trình
sẽ tự động gửi thông tin đến máy chủ (web server) và hiển thị trên màn hình máy tính của
người xem. Người dùng có thể theo các liên kết siêu văn bản (hyperlink) trên mỗi trang
web để nối với các tài liệu khác hoặc gửi thông tin phản hồi theo máy chủ trong một quá
trình tương tác. Hoạt động truy tìm theo các siêu liên kết thường được gọi là duyệt Web.
Quá trình này cho phép người dùng có thể lướt các trang web để lấy thông tin. Tuy nhiên
độ chính xác và chứng thực của thông tin không được đảm bảo.
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các
mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối
chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn
hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các
doanh nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và
các chính phủ trên toàn cầu. Chúng cung cấp một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng
lồ trên Internet.
Mạng Internet mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng, một trong các
tiện ích phổ thông của Internet là hệ thống thư điện tử (email), trò chuyện trực tuyến
(chat), máy truy tìm dữ liệu (search engine), các dịch vụ thương mại và chuyển ngân, và
các dịch vụ về y tế giáo dục như là chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo.
Nguồn thông tin khổng lồ kèm theo các dịch vụ tương ứng chính là hệ thống các trang
Web liên kết với nhau và các tài liệu khác trong WWW (World Wide Web). Trái với một
số cách sử dụng thường ngày, Internet và WWW không đồng nghĩa. Internet là một tập
hợp các mạng máy tính kết nối với nhau bằng dây đồng, cáp quang, v.v..; còn WWW,
hay Web, là một tập hợp các tài liệu liên kết với nhau bằng các siêu liên kết (hyperlink)
và các địa chỉ URL, và nó có thể được truy nhập bằng cách sử dụng Internet.
Với chuyên mục này, chúng tôi sẽ làm cho những vấn đề như Internet, Browser,
Windows, Object... trong CNTT trở thành "dễ cầm" như cái cuốc, "dễ bật" như cái công
tắc điện...
Nếu có hai máy tính được nối với nhau để có thể trao đổi thông tin cho nhau thì đó là
mạng máy tính. Mạng máy tính là nhiều máy tính (không hạn chế số lượng) được kết nối
với nhau, tương tự mạng có nhiều điện thoại liên lạc với nhau. Mục đích của việc kết nối
là trao đổi thông tin giữa các máy, chia sẻ tài nguyên (đĩa cứng, máy in) của các máy
trong mạng với nhau, và hơn nữa là quản lý được toàn bộ hoạt động của các máy được
kết nối.
Có thể nối hai hoặc nhiều mạng máy tính thành một mạng lớn hơn. Một máy tính trong
mạng nhỏ này có thể gửi thông tin đến cho một máy tính khác nằm trong mạng nhỏ thứ
hai nếu hai mạng nhỏ trên được nối với nhau.
Có thể đặt ra câu hỏi: "các máy tính được nối với nhau như thế nào, bằng phương tiện
gì?". Câu trả lời là các máy tính nối với nhau có thể là hữu tuyến, và cũng có thể là vô
tuyến. Kết nối hữu tuyến là kết nối bằng các loại dây cáp, kể cả dây điện thoại, cáp
quang. Còn kết nối vô tuyến thông qua sóng vô tuyến, hồng ngoại...
Từ đây, bắt đầu xuất hiện khái niệm Internet. Internet là mạng máy tính bao gồm nhiều
mạng của các tổ chức, quốc gia trên toàn thế giới. Internet là mạng máy tính lớn nhất thế
giới, hay hiểu đơn giản Internet là mạng của các mạng.
Như trên đã nói, khi đã được nối với Internet, từ bất kỳ một máy tính nào cũng có thể gửi
thông tin đến một địa chỉ xác định. Ví dụ, bạn cần gửi thư điện tử (e-mail) cho một người
đang ở Mỹ. Đầu tiên, bức thư từ máy tính của bạn được chuyển đến nơi bạn đăng ký dịch
vụ thư điện tử - thường gọi là nhà cung cấp dịch vụ Internet (tiếng Anh là ISP, các ISP tại
Việt Nam hiện nay là VDC, FPT, Sài Gòn Postel, Viện Khoa Học Công Nghệ) thường là
theo đường điện thoại. Tiếp theo đó, ISP này thông qua một tổ chức khác gọi là IAP, tức
là nơi quản lý cổng vào Internet (hiện nay chỉ có VDC - thuộc Tổng Công Ty Bưu Chính
Viễn Thông VN - đảm trách công việc này) để gửi bức thư của bạn lên Internet. Sau khi
đã lên Internet, thư của bạn sẽ đi đến địa chỉ mà bạn đã chỉ ra khi gửi - thường là một
server thư tín của ISP đang cung cấp dịch vụ cho người mà bạn gửi thư. Bức thư được
lưu vào
hộp thư riêng của người nhận nằm trên máy chủ của ISP. Người nhận thư sau đó sẽ
truy cập vào hộp thư của mình (tất nhiên cũng bằng máy tính) để lấy bức thư đó. Toàn bộ
quá trình trên được thực hiện tự động và chỉ xảy ra trong thời gian vài phút, tùy thuộc vào
lưu lượng giao dịch trên Internet (xem hình minh họa).
Qua ví dụ trên, ta thấy Internet đóng vai trò của một đường truyền tải thông tin khổng lồ,
trong đó IAP, ISP như là các trạm trung chuyển để kết nối và cung cấp dịch vụ. Như vậy,
có thể hình dung Internet như một con đường cao tốc kết nối các quốc gia, các tổ chức lại
với nhau. Bởi vậy khái niệm xa lộ thông tin cũng là một khía cạnh của Internet.
Internet tồn tại như là sự kết nối của rất nhiều mạng thông qua các phương tiện viễn
thông trên toàn thế giới như vệ tinh viễn thông, cáp quang, đường điện thoại... Khả năng
truyền tải của những phương tiện này rất lớn, có thể chứa được nhiều loại thông tin như
dữ liệu, hình ảnh, tiếng nói, hình ảnh động...
Ta hay nói lấy tin từ Internet. Những thông tin mà ta gọi là lấy từ Internet là do
các nhà cung cấp thông tin lên Internet mà ra. Ví dụ, công ty A muốn giới thiệu trên
Internet các loại sản phẩm mới của mình. Trước tiên công ty A tổ chức và đưa thông tin
sản phẩm lên một máy chủ. Máy chủ này phải nối với một ISP nào đó và có địa chỉ được
đặt theo nguyên tắc xác định chung. ISP thông qua IAP để kết nối với Internet. Người
dùng Internet có thể truy cập trực tiếp vào máy chủ của công ty A để xem thông tin (xem
hình minh họa). Số máy chủ chứa dữ liệu như trên được nối với Internet lên tới hàng
triệu. Từ đó có thể thấy lượng thông tin có trên Internet nhiều tới mức nào.
Đứng từ góc độ người dùng, Internet không có gì là cao siêu, khó hiểu. Tại nhiều nước
phát triển, người dân bình thường có máy tính trong gia đình đã sử dụng Internet như một
phương tiện truyền thông hữu ích. Vấn đề mà chúng ta quan tâm hiện nay là sử dụng và
quản lý Internet như thế nào để việc "nối mạch" diễn ra trôi chảy và giá cước ngày càng
rẻ. Để đạt được sự "trôi chảy" khi nối mạng điện thoại quốc tế ta cũng phải mất nhiều
năm. Còn giá cước hợp lý thì nhiều năm nay vẫn chưa đạt được.
Muốn trở thành người dùng Internet, điều trước tiên là bạn phải có máy tính với cấu hình
tối thiểu:
o Bộ xử lý 486 DX2-66MHz
o 8MB RAM
o 20 MB đĩa cứng trống
o Hệ điều hành Windows 3.1, hay Windows 95
o Và cho rằng bạn đã lắp đặt điện thoại.
Tiếp theo đây là những chi phí bổ sung để sử dụng Internet
o Modem tốc độ 14,4 kbps (loại lắp trong) 450.000 ĐVN
o Đăng ký truy nhập Internet với ISP (lắp đặt thuê bao) 450.000 ĐVN
o Cước sử dụng 400 ĐVN/phút
Như vậy, chi phí ban đầu để sử dụng Internet là 900.000 ĐVN
Với mức sử dụng Internet 1 tiếng/ngày, bạn sẽ phải trả 60 x 400 = 24.000 ĐVN mỗi
ngày, và 26 x 24.000 = 624.000 ĐVN mỗi tháng.
Nói đến Internet, tức là ta đã nói đến một mạng máy tính rất lớn với quy mô toàn cầu,
trong đó các máy tính được nối với nhau và truyền thông tin cho nhau, tuân theo những
quy cách chung để đảm bảo sự nhất quán trong toàn hệ thống.
Hãy hình dung, nếu ta thu nhỏ mô hình mạng máy tính kiểu Internet vào trong một cơ
quan, xí nghiệp có nhiều mạng nhỏ nằm ở những vị trí khác nhau, và cũng sử dụng những
cách thức, phương tiện kỹ thuật như trong Internet để trao đổi thông tin, thì đó chính là
mạng intranet.
Trong intranet, bạn cũng dùng bộ duyệt Web để xem thông tin được lưu trữ trên các máy
chủ (còn gọi là Web server) trong phạm vi cơ quan, xí nghiệp của mình.
Mạng intranet có thể nối với Internet. Và để bảo vệ intranet khỏi sự truy cập không hợp
pháp từ bên ngoài, người ta phải sử dụng những phương tiện kiểm soát luồng thông tin ra
vào intranet, gọi là bức tường lửa.
WORLD WIDE WEB, LINH HỒN CỦA INTERNET, LẠI CÀNG ĐƠN GIẢN
Người ta nói rằng Internet chỉ trở nên thực sự hấp dẫn khi World Wide Web xuất hiện.
World Wide Web - viết tắt là WWW, hay gọi ngắn gọn là Web - là công cụ, phương tiện
hay đúng hơn là một dịch vụ của Internet. Hiểu thế nào là dịch vụ Internet? Đó là những
phương tiện, cách thức được sử dụng trên Internet nhằm giúp cho việc trao đổi thông tin
trở nên thuận tiện và dễ dàng.
Không giống với những dịch vụ khác của Internet, Web cung cấp thông
tin rất đa dạng, bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh, video, nghĩa là những gì chúng ta
có thể cảm nhận được. Thông tin được biểu diễn bằng trang Web theo đúng nghĩa của
một trang mà chúng ta có thể nhìn thấy trên màn hình máy tính. Mọi
thông tin đều có thể biểu thị trên trang Web đó, kể cả âm thanh, hình ảnh động.
Nhưng nếu chỉ có như vậy thì cũng chẳng có gì phải bàn nhiều về Web.
Vấn đề lý thú nhất của Web nằm ở khía cạnh khác.
Trang Web bạn nhìn thấy trên màn hình máy tính có khả năng liên kết với những trang
Web khác, dẫn ta đến những nguồn thông tin khác. Chẳng hạn trên một trang thông tin
bạn đọc thấy câu thơ của Tố Hữu:
Khả năng này của Web có được nhờ thông qua các siêu liên kết (hyperlink). Siêu liên
kết dẫn ta từ trang Web (có đoạn thơ Tố Hữu) ở Việt Nam tới trang Web khác (phim về
tuyết tan) ở tận Nga. Như vậy, siêu liên kết về bản chất là địa chỉ trỏ tới nguồn thông tin
(trang Web) nằm đâu đó trên Internet. Bằng những siêu liên kết này, các trang Web có
thể liên kết với nhau thành một mạng chằng chịt (bản thân Web theo tiếng Anh là mạng
nhện), trang này chỉ tới trang khác, cho phép ta chu du trên biển cả thông tin (người ta
vẫn hay gọi là lướt trên Web là vậy).
Để có thể xem được trang Web, người ta phải sử dụng những chương trình đặc biệt gọi là
Web Browser. Hiện tại có hai Web browser thông dụng nhất là Navigator của Netscape
và Internet Explorer của Microsoft.
WWW (World Wide Web) là một phần của mạng Internet và bây giờ bạn đang ở trên
World Wide Web. Người ta vẫn thường gọi tắt World Wide Web là Web- nó là phần chủ
yếu nhất của mạng Internet tuy nhiên không phải là mạng Internet.
Sở dĩ Web trở nên phổ biến vì nó cung cấp cho người sử dụng khả năng truy cập dễ dàng
từ đó người sử dụng có thể khai thác các thông tin trên Net dưới dạng văn bản, hình ảnh
thậm chí cả âm thanh và video. Vì thế, Web đôi khi còn được gọi là đa phương tiện của
mạng Internet.
Để dùng Web, người sử dụng phải có trình duyệt Web như Netscape hoặc Microsoft
Internet Explorer. Trình duyệt Web là một ứng dụng tương thích với máy tính của bạn,
cho phép bạn nhìn thấy các trang Web trên màn hình máy tính (giống như trang Web của
chúng tôi mà hiện bạn đang đọc).
Trình duyệt web là phần mềm giúp bạn có thể xem được thông tin từ các website trên
Internet. Có rất nhiều trình duyệt web khác nhau, ví dụ như trình duyệt web Internet
Explorer (IE), Netscape Navigator/Communicator (Netscape), Opera, MyIE2, Mozilla
FireBird, Avant... trong đó phổ biến hơn cả là phần mềm trình duyệt IE
* Mỗi phần mềm trình duyệt đều có các phiên bản khác nhau, phiên bản mới nhất là
phiên bản có nhiều tính năng hơn các phiên bản trước đó. Tuy nhiên, các chức năng sử
dụng cơ bản của trình duyệt như lùi (back), tiến (forward), làm tươi (refresh)... đều giống
nhau và người dùng chỉ cần biết sử dụng một loại trình duyệt là có thể rất dễ dàng học
cách sử dụng các trình duyệt khác để có thể truy xuất và xem các thông tin trên Internet.
Hẳn các bạn sinh viên đã quen tìm kiếm thông tin thông qua công cụ tìm kiếm Google
(tên "Google" là một lối chơi chữ của từ googol, bằng 10100).Tuy Google là công cụ tìm
kiếm thông dụng nhất nhưng những thông tin tìm được thường chủ yếu là dưới dạng tin
tức. Muốn tìm kiếm những bài báo khoa học, chúng ta phải kết hợp sử dụng nhiều cộng
cụ khác. Bên cạnh Google, trên Internet còn có nhiều công cụ tìm kiếm thông tin rất
mạnh mẽ và hữu ích. Tôi xin giới thiệu với các bạn một số công cụ thông dụng nhất được
sử dụng trên thế giới.
• Ask ( http://www.ask.com/ )- Công cụ tìm kiếm đứng thứ 5 trên thế giới. Với công cụ
Ask, người sử dụng có thể tự chọn hình nền cho giao diện của mình bằng cách upload
những hình ảnh đơn giản. Khi tìm thông tin, kết quả tìm kiếm sẽ hiển thị cả những câu
hỏi gợi ý khác có liên quan đến câu hỏi truy vấn trong phần Q&A, giúp người sử dụng
nghiên cứu sâu hơn vấn đề của họ. Cấu trúc gợi ý phần bên phải của trang kết quả khá
hiệu quả. Nếu người sử dụng tìm kiếm với ngôn ngữ không phải là tiếng Anh, phần gợi ý
của Ask có khả năng nhận biết và đưa ra gợi ý sử dùngg từ điển dịch. Phần search ảnh có
chức năng phân loại ảnh màu và ảnh đen trắng.
• Google Scholar ( http://scholar.google.com/)- Công cụ tìm kiếm dành cho học giả.
Google Scholar là công cụ tìm kiếm chuyên sâu giúp người dùng tìm kiếm các tài liệu
học thuật (luận văn, luận án, sách, các bài báo khoa học,… ) về nhiều lĩnh vực. Google
Scholar có chức năng tìm kiếm đơn giản và chức năng tìm kiếm nâng cao ñể tăng tính
chính xác và hiệu quả cho việc tìm thông tin. Ngoài ra người dùng còn có thể sử dụng
chức năng ”Scholar preferences” ñể lựa chọn cách hiện thị kết quả tìm kiếm hay chức
năng “Library Links- online and offline” ñể tìm hiểu xem một thư viện đại học bạn đang
quan tâm có tài liệu đó hay không.
• Scirus( http://www.scirus.com/) là công cụ tìm kiếm web về thông tin khoa học toàn
diện nhất với hơn 450 triệu nguồn thông tin khoa học. Scirus cho phép các nhà khoa học
tìm kiếm không chỉ nội dung các bài báo, các trang web của các nhà khoa học, các phần
mềm học tập, các tài liệu chưa được xuất bản,…mà còn cả các thông tin riêng của các tổ
chức khoa học. Việc tìm kiếm trên Scirus có thể dẫn đến những cơ sở dữ liệu khác nhau.
• AltaVista (www.altavista.com).Tại website này bạn có thể tìm thấy hơn 30 triệu trang
web khác nhau và các công cụ tìm kiếm từ đơn giản đến cao cấp.
• Dogpile ( www.dogpile.com ). Mỗi lệnh search trên Dogpile được thực hiện với sự
kết hợp kết quả từ nhiều công cụ tìm kiếm và thư mục web, bao gồm Google, Teoma,
Overture, About.com…Lợi ích lớn nhất của Dogpile là các đường liên kết thông minh
“cô đặc” kết quả bằng cách tự suy đoán và đưa ra những điều kiện tìm kiếm bổ sung
nhằm giúp người dùng nhanh chóng xác định ví trí những gì cần tìm.
hư điện tử, hay email (từ chữ electronic mail), đôi khi được dịch không chính xác là
điện thư, là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính.
Email là một phương tiện thông tin rất nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể được gửi
đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính đặc biệt
là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy nguồn tới một hay rất
nhiều máy nhận trong cùng lúc.
Ngày nay, email chẳng những có thể truyền gửi được chữ, nó còn có thể truyền được các
dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim, và đặc biệt các phần mềm thư điện tử
kiểu mới còn có thể hiển thị các email dạng sống động tương thích với kiểu tệp HTML.
Phần mềm thư điện tử (email software) là loại phần mềm nhằm hỗ trợ cho người dùng
việc chuyển và nhận các mẫu thông tin (thường là dạng chữ). Thông tin có thể đưa vào
phần mềm thư điện tử bằng cách thông dụng nhất là gõ chữ bàn phím hay cách phương
cách khác ít dùng hơn như là dùng máy quét hình (scanner), dùng máy ghi hình số
(digital camera) đặc biệt là các Web cam. Phần mềm thư điện tử giúp đỡ cho việc tiến
hành soạn thảo, gửi, nhận, đọc, in, xoá hay lưu giữ các (điện) thư. Có hai trường hợp
phân biệt phần mềm thư điện tử là
• Loại phần mềm thư điện tử được cài đặt trên từng máy tính của người dùng gọi là
email client, hay phần mềm thư điện tử (cho) máy khách. Các thí dụ loại phần
mềm này bao gồm: Microsoft Outlook, Microsoft Outlook Express, Netscape
Comunicator, hay Eudora. Phần mềm thư điện tử này còn có tên là MUA (từ chữ
mail user agent) tức là Tác nhân sử dụng thư. Một cách gọi tên thông dụng khác
của email client là ứng dụng thư điện tử (email application) nếu không bị nhầm
lẫn
• Ngược lại, loại phần mềm thư điện tử không cần phải cài đặt mà nó được cung
ứng bởi các máy chủ (web server) trên Internet gọi là WebMail, hay Phần mềm
thư điện tử qua Web. Để dùng được các phần mềm loại này thường các máy tính
nối vào phải có một máy truy cập tương thích với sự cung ứng của WebMail. Thí
dụ loại này là mail.Yahoo.com, hay hotmail.com.
Nơi cung ứng phần mềm cũng như phương tiện chuyển thư điện tử gọi là nhà cung ứng
dịch vụ thư điện tử (email sevice provider).
Máy tính làm việc cung ứng các dịch vụ thư điện tử là MTA (từ chữ mail transfer agent)
hay là đại lý chuyển thư. Vì đây là máy chủ nên khi không bị nhầm lẫn với các loại máy
chủ khác thì người ta cũng gọi MTA là máy chủ hay rõ hơn là máy chủ thư điện tử.
Các dịch vu thư điện tử có thể được cung ứng miễn phí hay có lệ phí tuỳ theo nhu cầu và
mụch đích của ngưòi dùng. Ngày nay, email thường được cung cấp kèm với các phương
tiện Internet khi người tiêu dùng ký hợp đồng với các dịch vụ Internet một cách miễn phí.
Đặc điểm của thư điện tử khi so sánh với bưu chính
thông thường
• Thay vì viết thư bằng giấy mực và bút thì người gửi chỉ cần gõ chữ từ bàn phím
của máy tính và biết dùng một phần mềm thư điện tử (email program).
• Lá thư được gửi trên hệ thống bưu chính là vật liệu không cần máy nhận hay máy
gửi. Trong khi đó, nếu gửi thư điện tử, chỉ có các tín hiệu điện mã hoá nội dung
bức thư điện tử được truyền đi đến máy nhận. Do đó, chỉ có nội dung hay cách
trình bày lá thư điện tử là được bảo toàn. Trong khi đó, dùng đường bưu điện
người ta có thể gửi đi các vật liệu hàm chứa thêm nội dung hay ý nghĩa khác.
Điều này có thể rất quan trọng đối với nhiều người.
• Vận tốc truyền thư điện tử chỉ vài giây đến vài phút và chi phí rất nhỏ không đáng
kể so với gửi qua đường bưu điện.
• Dùng thư điện tử thì bất kỳ lúc nào cũng có thể mở phần mềm thư điện tử ra đọc
nên tiện lợi hơn là việc phải bỏ thư ở các thùng thư. Đồng thời, vì mỗi người dùng
thư đều phải nhập mật khẩu vào máy nên thư điện tử sẽ khó bị người ở chung đọc
lén so với thư gửi bưu điện. Nhưng ngược lại, các tay tin tặc xa lạ có thể xâm
nhập vào hệ thống thư điện tử của cá nhân nếu như các mật mã hay các hệ thống
an toàn phần mềm bị bẻ gãy.
• Khối lượng gửi và nhận thư điện tử có thể nhiều hơn thư bưu điện rất nhiều lần.
Đối với các dịch vụ thư điện tử mới thì dung lượng có thể lên đến hàng Gbyte như
dịch vụ của Gmail chẳng hạn, hay nhiều hơn. Số thư có thể dự trữ trong dung
lượng này tương đương với vài bộ tự điển bách khoa.
• Các trường hợp thư phá hoại trên hệ thống bưu điện (như là thư có bột antrax, thư
bom, ...) rất hiếm có nhưng có thể gây thương vong. Ngược lại, hệ thống thư điện
tử, không thể gây thương tích mà thường rất phải đương đầu với nhiều vấn nạn
như virus máy tính, các thư nhũng lạm (spam mail), các thư quảng cáo
(advertisement mail) và các thư khiêu dụ tình dục (pornography mail), đặc biệt là
cho trẻ em, thì lại rất nhiều. Đối với các loại thư độc hại (malicious mail) này
người dùng cần phải cài đặt thêm các tiện ích hay chức năng lọc (sẵn có trong
phần mềm hay phải mua thêm) để giảm trừ. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là
không có công cụ phần mềm nào là tuyệt hảo.
• Các dạng chuyển tiếp (chain mail) trong đó người nhận lại chuyển đi nội dung lá
thư cho một hay nghiều người khác thường cũng phổ biến trong cả hai hệ thống
bưu chính và thư điện tử. Khả năng ảnh hưởng về thông tin của hai loại này là
tương đương mặc dù thư điện tử chuyển tiếp có nhiều xác suất gây nhiễm virus
máy tính.
• Hộp thư là nơi cất giữ các thư từ với địa chỉ hẳn hoi. Tương tự, trong hệ thống thư
điện tử, thì hộp thư này tương đương với phần dữ liệu chứa nội dung các email
cộng vói điạ chỉ của người chủ thư điện tử. Điểm khác biệt ở đây là hộp thư điện
tử sẽ có nhiều chức năng hơn là việc xoá bỏ các thư cũ.
Mỗi người có thể có một hay nhiều địa chỉ email (và phải được đăng ký qua một
hệ thống nào đó). Mỗi hộp thư sẽ có một địa chỉ phân biệt không bao giờ trùng
với địa chỉ email khác.
Như vậy có thể hoàn toàn không nhầm lẫn khi dùng danh từ hộp thư điện tử hay
hòm thư điện tử (email account) để chỉ một phần mềm email đã được đăng kí
dùng để nhận và gửi email cho một cá nhân.
1. Phần tên_định_dạng_thêm: Đây là một dạng tên để cho người đọc có thể dễ
dàng nhận ra người gửi hay nơi gửi. Tuy nhiên, trong các thư điện tử người ta có
thể không cần cho tên định dạng và lá thư điện tử vẫn được gửi đi đúng nơi. Thí
dụ: Trong địa chỉ gửi thư tới viết dưới dạng Nguyễn Thị A
nguyenthia111@yahoo.com hay viết dưới dạng nguyenthia111@yahoo.com thì
phần mềm thư điện tử vẫn hoạt động chính xác và gửi đi đến đúng địa chỉ.
2. Phần tên_email: Đây là phần xác định hộp thư. Thông thường, cho dễ nhớ, phần
này hay mang tên của người chủ ghép với một vài kí tự đặc biệt. Phần tên này
thường do người đăng kí hộp thư điện tử đặt ra. Phần này còn được gọi là phần
tên địa phương.
3. Phần tên_miền: Đây là tên miền của nơi cung cấp dịch vụ thư điện tử. Ngay sau
phần tên_email bắt đầu bằng chữ "@" nối liền sau đó là tên miền.
chat voice là cách chat nhưng bằng giọng nói , gần giống như bạn gọi điện cho ng` ta
nhưng onl và thông qua mạng internet =
Ðể sử dụng chức năng Voice Chat, bạn cần có bộ Headset gồm headphone và micro gắn
chung hay dùng loa máy tính và micro riêng.
Giá một bộ headset khoảng 100.000 đồng. Mỗi headset có 2 jack cắm: 1 cắm vào ngõ
micro in và 1 cắm vào ngõ line out hay speaker out trên sound card máy tính.
Muốn voice chat với ai bằng Yahoo! Messenger (YM), trong cửa sổ nhắn tin, bạn chọn
nút Voice trên thanh công cụ (có hình micro). Chương trình sẽ tự động kết nối với audio
server.
Khi kết nối thành công, bạn sẽ thấy xuất hiện nút Talk màu xanh đậm cùng với thanh
điều chỉnh âm lượng. Ðể có thể nói, bạn bấm và giữ nút Talk, sau đó nói vào micro. Bạn
cũng có thể vừa nhắn tin, vừa trò chuyện bằng giọng nói mà không cần phải bấm giữ nút
Talk bằng cách chọn chức năng Hand Free.